Để hạn chế dịch bệnh, người nuôi trước khi cấp nước vào ao nuôi tôm, phải diệt tạp, sát trùng nước trong ao lắng bằng Chlorine với liều lượng 30 – 35ppm (30 – 35kg/1.000 m3), trước khi cấp vào ao nuôi để thay nước. – Quản lý chặt chẽ lượng thức ăn hàng ngày, giảm từ 15 – 20% lượng thức ăn. Thức ăn phải đảm bảo đủ chất lượng, số lượng khi cho tôm ăn, không cho ăn thừa. Không sử dụng thức ăn hết hạn sử dụng hoặc bị mốc.
– Khẩu phần ăn cần bổ sung thêm Vitamin C, khoáng chất để tăng sức đề kháng cho tôm. Giảm cho tôm ăn khi nhiệt độ dưới 26 oC hay trên 30 oC.
– Bố trí quạt nước hợp lý ở mức 15 – 20 cánh quạt/1.000 m2, không để nước đứng yên quá lâu, luôn đảm bảo oxy hòa tan trong các tầng nước ao (cần duy trì hàm lượng oxy hòa tan lớn hơn 4ppm); duy trì nước ao nuôi tôm từ 1,2 – 1,5 m. Đối với các ao nuôi trong điều kiện độ mặn thấp, cần phải bổ sung khoáng chất nhằm cân bằng lượng khoáng chất trong ao. Áp dụng mô hình nuôi tôm sử dụng vi sinh có lợi nhằm ổn định màu nước, độ pH, hạn chế dịch bệnh. Chú ý sử dụng chế phẩm vi sinh, cần sử dụng đúng cách, chọn sản phẩm có uy tín, chất lượng. Sản phẩm nằm trong danh mục được cho phép lưu hành tại Việt Nam.
– Quản lý chặt chẽ các yếu tố môi trường nước trong ao nuôi như pH (kiểm tra 2 lần/ngày vào lúc 6 giờ sáng và 14 giờ chiều); độ kiềm (định kỳ 7 – 10 ngày kiểm tra/lần); NH3, H2S, Oxy hòa tan, mật độ tảo (định kỳ 3 ngày kiểm tra/lần) cần điều chỉnh trong ngưỡng thích hợp nhất. Đặc biệt, là mật độ tảo (màu nước) cần giữ ổn định trong suốt thời gian nuôi.
– Định kỳ chài, cân và kiểm tra tốc độ tăng trưởng của tôm (từ 7 – 10 ngày/lần) để có điều chỉnh kịp thời, đặc biệt là thức ăn. Hạn chế sử dụng kháng sinh, chỉ sử dụng thuốc kháng sinh nhạy với vi khuẩn sau khi có kết quả lập kháng sinh đồ và sử dụng đúng liều hướng dẫn của cơ quan chuyên môn, phải ngưng sử dụng kháng sinh trước khi thu hoạch 4 tuần. Khi tôm nuôi có dấu hiệu ăn giảm, tăng trưởng chậm lại hoặc hàm lượng oxy hòa tan thấp, cần thu hoạch từng phần hoặc thu hoạch toàn bộ nhằm tránh thiệt hại xảy ra. Tiếp tục giám sát chặt chẽ, diễn biến thời tiết và quan trắc môi trường khu vực nuôi.
– Chủ động theo dõi tình hình dịch bệnh, tổ chức khoanh vùng dịch, xử lý tốt khi dịch bệnh xảy ra. Tuyệt đối không được xả thải bùn đáy ao và mầm bệnh ra kênh rạch tự nhiên khi chưa được xử lý.
* Lưu ý: Người dân không thả nuôi tôm biển liên tục nhiều vụ/năm, cần dành nhiều thời gian để ngưng vụ nuôi và chuẩn bị ao nuôi thật kỹ cho vụ nuôi chính vào đầu năm 2015.
Phòng bệnh tôm nuôi cuối năm 2014, Phòng Thí nghiệm – CCTS Cần Thơ.
]]>