Bệnh mủ gan được phát hiện lần đầu tiên tại Việt Nam năm 1998. Đây là một bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ nuôi cá tra, basa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tỉ lệ xuất hiện bệnh mủ gan trên cá tra khoảng (61%) không cao hơn nhiều so với các bệnh khác như bệnh đỏ mỏ đỏ kỳ (68,3%), bệnh phù đầu (51,2%) (Trần Anh Dũng, 2005)… Nhưng tỷ lệ chết là cao nhất (60 – 80%) (Crumlish và ctv,2002) làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôi. Tìm hiểu về bệnh mủ gan trên cá tra, basa nhằm tìm ra biện pháp phòng trị bệnh hiệu quả là mối quan tâm hàng đầu của các nhà nuôi cá.
1. Nguyên nhân gây bệnh – Bệnh mủ gan (bệnh đốm trắng trên gan, thận) trên cá tra, cá basa do nhóm vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây ra (Crumlish và ctv, 2002). Vi khuẩn E. ictaluri thuộc họ Enterbacteriaceae là vi khuẩn gram âm, hình que, kích thước 1 x 2 – 3μm, không sinh bào tử, là vi khuẩn yếm khí tùy tiện, phản ứng catalase dương tính, oxidase âm tính, không oxy hoá, lên men trong môi trường glucose. Có 1 – 3 Plasmid liên kết với E. Ictaluri (Speyerer và Boyle, 1987; Newton và ctv,1988) . Những plasmid có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đề kháng với kháng sinh. E. ictaluri là một trong những loài khó tính nhất của chủng Edwarsiella. Tăng trưởng chậm trên môi trường nuôi cấy, cần từ 36 – 48 giờ ở 28 – 30 độ C để phát triển mọc thành khuẩn lạc nhỏ trên thạch BHI (Brain heart infusion Agar) và vi khuẩn tăng trưởng chậm hoặc không tăng trưởng khi ủ ở 37 độ C (Valerie và ctv, 1994). Vi khuẩn có thể phân lập từ mẫu cá bệnh (gan, thận, tỳ tạng) trên môi trường TSA (Trytone Soya Agar) hoặc EMB (Eosine Methylene blue lactase Agar) sau 48 giờ ở 28 độ C tạo thành khuẩn lạc này trắng đục.
2. Đường lây truyền – Bệnh thường xảy ra nhiều vào mùa mưa lũ kéo dài đến mùa khô. Thời điểm phát triển bệnh và mức độ thiệt hại khác nhau theo từng năm.
– E. ictaluri có thể nhiễm cho cá bằng hai đường khác nhau. Vi khuẩn trong nước có thể, qua đường mũi của cá xâm nhập vào cơ quan khứu giác và di chuyển vào dây thần kinh khứu giác, sau đó vào não (Miyazaki và Plumb 1985; Shotts và ctv,1986). Bệnh lan rộng từ màng não đến sọ và da. E. ictaluri cũng có thể xâm nhiễm qua đường tiêu hoá qua niêm mạc ruột vào máu gây nhiễm trùng máu (Shotts và ctv,1986). Bằng đường này thì vi khuẩn vào mao mạch trong biểu bì gây hoại tử và mất sắc tố của da. Cá da trơn còn nhiễm E. ictaluri qua đường miệng gây nhiễm khuẩn ruột. Bệnh tiến triển gây viêm ruột, viêm gan và viêm cầu thận trong vòng 2 tuần sau khi nhiễm bệnh ( Shotts và ctv, 1986).
– Tóm lại, vi khuẩn E. ictaluri có thể xâm nhập vào cơ thể cá từ môi trường nước qua da, qua mang cá và qua miệng bằng đường thức ăn gây bệnh mủ gan cho cá.
3. Triệu chứng a) Mức độ nhẹ: Bên ngoài thân cá bình thường không biểu hiện xuất huyết, mắt hơi lồi nhưng khi mổ ra thì gan, thận, tỳ tạng có nhiều đốm trắng (như đốm mủ). Đó là biểu hiện bệnh lý đặc trưng nhất của bệnh mủ gan.
b) Mức độ nặng: – Cá bệnh bỏ ăn, bơi lờ đờ trên mặt nước, cá thường nhào lộn và xoay tròn. Khi bệnh nặng cá không phản ứng với tiếng động. Một số cá xuất huyết tất cả các vi hoặc xuất huyết toàn thân. Có khi cá xuất huyết trầm trọng, khi nhấc lên khỏi mặt nước máu sẽ chảy ra từ da và mang cá.
– Một số cá bệnh còn biểu hiện màu sắc nhợt nhạt, có nhiều bệch lớn, nhỏ trên da. Số lượng cá chết hằng ngày khá cao và tỷ lệ tăng dần.
4. Dấu hiệu bệnh tích a) Bệnh tích đại thể (Gross lesion): – Gan, thận cá bệnh sưng rất to, thận có hiện tượng nhũn, tỳ tạng sưng ít hơn. Trên gan, thận, tỳ tạng xuất hiện nhiều đốm trắng tròn, đường kính khoảng 1 – 3 mm khắp bề mặt và cả bên trong cơ quan. Những đốm trắng này có chứa dịch hơi đặc. Khi cấy những đốm trắng này lên môi trường thạch sau 24 giờ thấy xuất hiện các khuẩn lạc thuần nhất.
– Các đốm trắng này dễ nhầm lẫn với các đốm trắng do nhóm thích bào tử trùng gây ra. Tuy nhiên, đốm trắng do ký sinh trùng gây ra thường xuất hiện không nhiều, đa số chỉ xuất hiện trên tỳ tạng và không nổi rõ. Khi quan sát dưới kính hiển vi, nếu bên trong các đốm trắng có chứa dịch màu trắng như sữa thì đó hoàn toàn là bào tử trùng. Còn khi cá bị bệnh đốm trắng do vi khuẩn thì các đốm trắng nổi rất nhiều, lộ rõ trên bề mặt và xuất hiện trên cả ba cơ quan là gan, thận và tỳ tạng.
b) Bệnh tích vi thể: – Biểu hiện ở gan: + Quan sát tiêu bản ở gan có đốm trắng dưới kính hiển vi cho thấy đây là vùng hoại tử. Các tế bào gan không còn sát nhau như ở mô thường mà tách rời ra từng tế bào hoặc thoái hoá thành một vùng không còn nhận ra được cấu trúc với nhiều mức độ. Giai đoạn đầu hiện tượng sung huyết động mạch và tĩnh mạch gan, đặc biệt là hệ thống xoang mao mạch giữa các dãy tế bào gan làm cho toàn bộ tổ chức gan bị sưng to. Sau đó, do quá trình sung huyết kéo dài dẫn đến vỡ mạch máu và giải thoát nhiều enzyme (protease, lipase,…) làm các tế bào ở vùng viêm bị hủy hoại dẫn đến hoại tử. Lúc này quan sát thấy những tế bào đã tách rời nhau, nhân tế bào co lại và vỡ vụn, cuối cùng những tế bào này bị tiêu hủy. + Khi cá bệnh nặng, những tổn thương lan rộng làm gan không còn chức năng khử độc và lọc máu, làm chất độc tích tụ trong cơ thể kết hợp với những yếu tố khác làm cá chết. Ngoài ra, do tổ chức gan bị hư hại làm mất khả năng tiết mật của gan. Một số cá mới chết khi mổ ra thấy túi mật bị vỡ, dịch mật lan tràn khắp nội quan. Điều này có thể do khi gan bị hoại tử đồng thời cũng hoại tử ống dẫn mật và túi mật làm túi mật vỡ, dịch mật thoát ra ngoài (Thịnh, 2002).
– Biểu hiện ở thận: Cấu trúc vi thể của thận bị hủy hoại trầm trọng, các phản ứng sưng viêm xảy ra ở toàn bộ tổ chức. Thận sưng to đồng thời bị nhũn do sung huyết, một phần có thể do tích tụ nước trong thận mà không đào thải được do hệ thống tiểu cầu thận và ống thận bị hư hại. Phản ứng viêm kéo dài gây hoại tử và mất chức năng các đơn vị cấu tạo nên thận. Mô tạo máu nằm xen kẽ với các tế bào kẻ và các tế bào nội tiết của thận cũng bị hoại tử làm cho máu trong cơ thể bị giảm sút. Khi thận bị hoại tử, chức năng bài tiết chất thải trong quá trình trao đổi chất bị ngưng trệ. Trong khi đó quá trình trao đổi chất lại đặc biệt tăng mạnh do cơ thể cá huy động các tổ chức nhằm đào thải các tác nhân gây bệnh. Ngoài ra, hai loại hormone tuyến thượng thận là adrenalin và noradrenalin không được sản xuất khi thận bị hoại tử cũng góp phần làm rối loạn chức năng sinh lý của cá.
– Biểu hiện ở tỳ tạng: + Cùng với gan và thận, tỳ tạng cũng là cơ quan bị hủy hoại nặng khi cá bị bệnh mủ gan. Những đốm trắng trên tỳ tạng là những vùng mô hoại tử, với nhiều mức độ khác nhau. + Đối với cá bệnh nặng, nhiều vùng hoại tử dạng hạt lan rộng, phá hủy các các tiểu thể hình elip tròn xoay (là vùng chức năng của tỳ tạng, nơi tiêu huỷ các vật lạ và vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể). Khi tác nhân gây bệnh xâm nhập quá nhiều sẽ gây ra tình trạng quá tải đến một lúc nào đó tế bào sẽ mất chức năng và thoái hoá. Quá trình hoại tử ở tỳ tạng bắt đầu từ quá trình thoái hoá và hoại tử các tiểu thể tỳ tạng làm mất chức năng tạo hồng cầu mới và phá hủy hồng cầu già cũng như không thể sản xuất các tế bào lympho và bạch cầu bảo vệ cơ thể, chống các tác nhân gây bệnh. Cũng như thận, mô tạo máu bị phá hủy nên tỳ tạng mất chức năng cung cấp máu cho cơ thể.
– Biểu hiện ở mang: + Quan sát lát cắt ngang của mang cá dưới kính hiển vi cho thấy có những vùng các sợi mang bị dính lại với nhau. Điều này có thể do khi vi khuẩn tấn công, phản ứng miễn nhiễm tự bảo vệ của cơ thể cá làm cho các sợi mang bị sưng lên và khi hai hoặc nhiều sợi mang ở gần nhau sưng lên cùng lúc sẽ dẫn đến sự tiếp xúc của các sợi mang và do ở đây chỉ được bao bọc bởi một lớp tế bào rất mỏng với nhiều mạch máu nhỏ nên rất dễ bị phình lên dưới tác động của phản ứng viêm hay do vi khuẩn tấn công. + Sự dính lại của các sợi mang làm giảm khả năng hô hấp của mang do giảm diện tích tiếp xúc với nước và do mất chức năng ở các vùng sợi mang bị dính lại hay hoại tử. Do đó cá bệnh sẽ có biểu hiện thiếu oxy và thường tập trung ở mặt nước. Điều này càng trầm trọng hơn khi cá bị mất máu do hiện tượng xuất huyết và vùng mô tạo máu ở thận và tỳ tạng bị hủy hoại.
– Biểu hiện ở tim và cơ: + Quan sát tiêu bản tim và cơ cá bệnh dưới kính hiển vi không thấy biến đổi lớn về mô học . Điều này chứng tỏ hai cơ quan này ít bị ảnh hưởng trực tiếp bởi vi khuẩn. + Tóm lại, khi cá bị bệnh mủ gan các cơ quan bị huỷ hoại nặng nhất là gan, thận, tỳ tạng kế đến là mang cuối cùng bị ảnh hưởng nhẹ nhất là tim và cơ và nguyên nhân làm chết cá có thể do gan, thận, tỳ tạng, mang bị hư hại dẫn đến mất chức năng của các cơ quan này.
5. Khả năng bùng phát bệnh – Tốc độ lây lan của bệnh gan thận mủ rất nhanh. Trong điều kiện thí nghiệm, khi có mầm bệnh xâm nhập, khoảng 3 – 4 ngày toàn bộ cá nuôi trong bể đều bị nhiễm bệnh, nếu không có biện pháp chăm sóc và quản lý hệ thống nuôi. Do đó cần áp dụng biện pháp phòng bệnh tích cực một cách đồng bộ.
– Xác cá chết phải chôn và xử lý vôi bột để hạn chế mầm bệnh lây lan. Không dùng cơ quan nội tạng, máu, mỡ và các phụ phẩm nhà máy chế biến thuỷ sản làm thức ăn trở lại cho cá tra, basa vì nếu gặp phải nguồn sản phẩm nhiễm khuẩn, mầm bệnh sẽ tồn tại lâu trong môi trường nước và phát tán vi khuẩn gây bệnh sẽ lây lan vào ao bè nuôi, lây sang nhiều khu vực nuôi cá khác gây thành đại dịch.
6. Phòng và trị bệnh cho cá nuôi a) Biện pháp phòng bệnh: – Nên cho cá ăn thức ăn nấu chín hoặc thức ăn viên để phòng bệnh xâm nhập qua đường thức ăn.
– Để chủ động phòng bệnh, ngăn chặn mầm bệnh xâm nhập và lây lan vào hệ thống nuôi cá tra trong vùng, các hộ nuôi cá cần có ao lắng lọc, sát trùng nước trước khi bơm nước vào ao nuôi. Định kỳ 10 – 15 ngày xử lý nước ao nuôi để diệt vi khuẩn, virus gây bệnh trong ao bằng cách dùng vôi nông nghiệp CaCO3 liều lượng 2 – 3kg/100 m2 tạt quanh ao kết hợp các loại thuốc sát trùng nước ao nuôi hiệu quả cao như BKC, Vime-Protex, Vimekon.
– Đối với những ao nuôi cá tra, basa lượng vật chất hữu cơ lơ lửng tồn tại trong ao rất cao, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến tác dụng diệt khuẩn của các loại thuốc sát trùng như Chlorin, thuốc tím, H2O2 . Vì vậy nên dùng Vimekon để xử lý nước vì nó có ưu điểm là hiệu quả diệt khuẩn cao, không bị ảnh hưởng bởi môi trường có nhiều chất hữu cơ .
b) Biện pháp điều trị bệnh: – Theo các nghiên cứu gần đây vi khuẩn E. ictaluri gây bệnh mủ gan cá tra, basa, cá trê rất nhạy với Florphenicol. Đây là loại kháng sinh mới được phép sử dụng để điều trị bệnh cá của nhiều quốc gia trên thế giới kể cá Hoa Kỳ, thị trường xuất khẩu cá tra, basa lớn nhất của Việt Nam.
– Florfenicol có hoạt tính chống lại sự phát triển của vi khuẩn bằng cách kết dính với tiểu đơn vị 50S của ribosom, ngăn chặn cầu nối peptid giữa các acid amin vì vậy ức chế sự tổng hợp protein làm cho vi khuẩn này không còn khả năng phát triển và tồn tại.
– Đầu năm 2006, Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ công bố kết quả nghiên cứu tìm kiếm các loại thuốc kháng sinh thay thế các loại thuốc cấm, đã công nhận Florfenicol là kháng sinh đặc trị bệnh này. Sử dụng thuốc từ 7 – 10 ngày sẽ cho hiệu quả tốt, cá sẽ hồi phục nhanh khi người nuôi thực hiện tốt khâu vệ sinh diệt mầm bệnh trong khu vực nuôi và trong môi trường nước.
– Florfenicol có độ tồn dư thấp trong mô cơ. Dùng thuốc liều 10mg/kg thể trọng liên tục 12 ngày, khi ngưng sử dụng 7 ngày mức tồn dư trong cơ cá tra còn 0,222 – 0,109 ppm (mức cho phép của Việt Nam và Mỹ là 1ppm) (Schering Plough Animal Health Comporation, 2005)
– Hiện nay, sản phẩm Vime – fenfish với hoạt chất chính Florfenicol và các chất dẫn xuất đặc biệt là sản phẩm đang được dùng để điều trị bệnh mủ gan mang lại hiệu quả rất cao ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Liệu trình điều trị như sau: + Cách 1: . Sáng: Vime – Glucan 1kg/10 – 13 tấn cá. . Chiều: Vime – fenfish 2.000 1lít/15 – 20 tấn cá + Trimesul 1kg/4 tấn cá. + Cách 2: . Sáng: Vime – Glucan 1kg /10 – 13 tấn cá. . Chiều: Vimenro 200 1lít/20 tấn cá + Trimesul 1kg/ 4 tấn cá. + Cách 3: . Sáng: Glusome 115 1kg/10 – 13 tấn cá. . Chiều: Vime – fenfish 2000 1 lít/15 – 20 tấn cá + Vime – Cicep 1kg/5 tấn cá. + Cách 4: . Sáng: Glusome 115 1kg/ 10 – 13 tấn cá. . Chiều: Vime – fenfish 2000 1 lít/15 – 20 tấn cá + Doxery 1kg/5 tấn cá.
c) Một số lưu ý: – Thuốc sử dụng được tính theo trọng lượng cá thực tế.
– Cho cá ăn liên tục 7 – 10 ngày nhằm tránh tái nhiễm kết hợp xử lý nước: + Đối với cá con (<100g): dùng Vimekon 1kg/2.000 m3. + Đối với cá lớn: dùng Fresh Water 1kg/1.500 – 2.000 m3 hoặc Protectol 1lít/1.500 – 2.000 m3.
– Khi trộn thuốc với thức ăn phải để khô ráo và nên áo bằng Vime – Lecithin nhằm tăng khả năng dung nạp của thuốc
– Tuy nhiên, hiện nay khi hầu hết các loại kháng sinh đang được sử dụng điều trị bệnh gan thận mủ và xuất huyết trên cá tra và basa đã bị vi khuẩn đề kháng, hiệu quả điều trị không cao. Biện pháp tăng liều dùng và kéo dài thời gian điều trị dẫn đến tăng chi phí điều trị và gây tồn dư ảnh hưởng đến chất lượng thịt.
– Sản phẩm “Forfish” được nghiên cứu và thử nghiệm nghiêm ngặt và liên tục trong vòng 3 năm với tiêu chí chuyên biệt đáp ứng cho xuất khẩu để tạo ra một sản phẩm mới, hiệu quả điều trị cao, dứt bệnh nhanh và đảm bảo bệnh không tái nhiễm đem lại lợi nhuận cao cho các nhà nuôi cá thâm canh quy mô lớn.
– Forfish được xem như là Giải pháp mới mang lại hiệu quả tuyệt vời đặc trị bệnh gan thận mủ, xuất huyết trên cá.
Bệnh gan thận mủ trên cá tra và cá basa, Nguồn: Công ty Vemedim.]]>